Kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở quân khu Trị Thiên qua các cuộc phỏng vấn đối với 13 người cựu chiến binh và cựu thanh niên xung phong ở tỉnh Thừa Thiên – Huế

IMAI Akio
Trong 13 người được phỏng vấn, 5 người tham gia cách mạng ở Bình Trị Thiên từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau khi ký hiệp định Giơnevơ, 4 người trong 5 người nói trên tập kết miền Bắc.
4 người này đều trở về miền Nam và tham gia chiến đấu từ cuối những năm 1950 và nửa đầu những năm 1960. Như vậy bộ đội đi B lúc đầu chủ yếu là người miền Nam.
Mãi cho đến năm 1964 thì được bổ sung quân đội miền Bắc. Càng ngày thì số quân đội miền Bắc bổ sung càng nhiều. Nhiều nhất là năm 1969 trở đi là vì lực lượng tại chỗ không thể đáp ứng nổi về quân số mà cả trang bị vũ khí nữa.
Tiến công Huế Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi nhất đối với lực lượng quân giải phóng miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 cả miền Nam và có ý nghĩa lớn về chính trị và quân sự, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung.
Tuy nhiên, từ tháng 4 năm 1968, Mỹ bắt đầu phản kích. Ác liệt nhất là từ tháng 4 năm 1968 cho đến 1970. Sau Mậu Thân 1968, lực lượng quân giải phóng rất là yếu, cơ sở thì bị vỡ. Vào thời gian 1971-1972 quân giải phóng mới đánh lại. Sau chiến dịch Quảng Trị thì bước sang năm 1973 là toàn đánh cầm cự với địch.
Điều đáng chú ý là ông S, cán bộ bảo vệ của Trung đoàn 6 lúc chiến dịch Mậu Thân, nói là ông treo lá cờ Mặt trận Liên minh Giải phóng miền Nam Việt Nam, chứ không phải là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trên cột cờ Phu Văn Lâu.
Hơn nữa, trong cuộc phỏng vấn này, trừ ông S và ông B ra, các người được phỏng vấn không muốn đề cập đến thảm sát Huế Tết Mậu Thân. Về sự kiện này, ông B nói rằng “ Có một điểm là người ta bảo quân giải phóng đã lợi dụng cuộc tấn công này để sát hại người của phía bên kia. Cái này chúng tôi khẳng định là hoàn toàn không có cơ sở ”.